GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ HOẠT TÍNH CHỐNG UNG THƯ CỦA CÁC HỢP CHẤT VÀ CHIẾT XUẤT TỪ NẤM THƯỢNG HOÀNG Phellinus linteus

Được dịch từ: Sliva D. 2010. Medicinal mushroom Phellinus linteus as an alternative cancer therapy (Review). Experimental and Therapeutic Medicine 1: 407-411. doi: 10.3892/etm_00000063

Nấm dược liệu Phellinus linteus được sử dụng như một liệu pháp thay thế trong điều trị ung thư

Tóm tắt:

Liệu pháp thay thế trong điều trị ung thư với việc bổ sung các chất dinh dưỡng có chứa nhiều sản phẩm thảo dược hiện đang phát triển ở nhiều nước phương Tây. Các nghiên cứu về dịch tễ học mới đây đã chứng minh rằng các loài nấm có thể phòng chống nhiều loại ung thư khác nhau. Nấm Thượng hoàng (Phellinus linteus) được biết đến là loài nấm dược liệu phương Đông có nhiều hoạt tính sinh học, bao gồm các hoạt tính chống khối u trực tiếp và gián tiếp thông qua điều hòa miễn dịch. Hoạt tính của P. linteus và các chiết xuất của nó có liên quan đến sự hiện diện của các polysaccharides, các phức hợp peptide/protein và các phức chất có trọng lượng phân tử thấp. Các phân đoạn polysaccharide được phân lập từ P. linteus có khả năng làm tăng cường hoạt động của các tế bào miễn dịch như tăng sự sản xuất các cytokinin bởi các đại thực bào, hoặc tăng hoạt tính gây độc tế bào của các tế bào tiêu diệt tự nhiên (natural killer cells). Hơn nữa, P. linteus có thể điều hòa sự biểu hiện hoặc hoạt tính của nhiều gene liên quan đến sự gia tăng tế bào, sự tự chết theo chương trình, sự tạo thành mạch máu, các động thái xâm lấn và hóa dự phòng. Cuối cùng, các chiết xuất P. linteus được chứng minh có khả năng làm giảm khối u ở cả 3 trường hợp riêng biệt được báo cáo. Như vậy, chiết xuất từ P. linteus có tiềm năng sử dụng như là một liệu pháp thay thế trong điều trị ung thư.

Nội dung:

  1. Giới thiệu
  2. Phellinus linteus
  3. Hoạt tính kháng ung thư của các hợp chất được phân lập từ P. linteus
  4. Hoạt tính chống ung thư của chiết xuất P. linteus
  5. Các nghiên cứu trên người
  6. Kết luận

1. Giới thiệu

Sự phổ biến của thuốc bổ sung và thay thế (complementary and alternative medicine, CAM) đang tăng dần ở những bệnh nhân ung thư, và CAM đại diện cho một trong những phương thức điều trị phát triển nhanh nhất ở Mỹ. CAM thường được sử dụng phổ biến nhất bao gồm châm cứu, phương pháp tiếp cận cơ thể-tâm trí và bổ sung chế độ ăn uống. Cụ thể, trong số các bệnh nhân ung thư, việc sử dụng CAM dao động từ 30 đến 75% trên toàn thế giới và bao gồm các phương pháp ăn uống, thảo dược và các phương pháp điều trị sinh học khác. Ví dụ, các liệu pháp thảo dược được sử dụng bởi hơn 12% dân số nước Mỹ mỗi năm, dẫn đến chi phí thiếu hụt hàng năm trên 5 tỷ đô la.

Mặc dù sự phổ biến của các phương pháp điều trị ung thư thay thế với việc bổ sung dinh dưỡng/chế độ ăn uống trong số các bệnh nhân, đôi khi dựa trên bằng chứng giai thoại, phương pháp điều trị CAM trong nhiều trường hợp được dán nhãn là “giả khoa học” (pseudoscience). Do đó, việc kiểm tra khoa học chính xác và đánh giá an toàn của các thực phẩm bổ sung phải được thực hiện, sau đó các bác sĩ có thể đề nghị sử dụng một chế độ ăn bổ sung cụ thể.

Một số chất bổ sung phổ biến được sử dụng rộng rãi thường là nấm khô hoặc chất chiết xuất từ nấm. Đáng chú ý, ba nghiên cứu dịch tễ học gần đây từ châu Á đã chứng minh mối tương quan nghịch giữa lượng nấm tiêu thụ và ung thư dạ dày, ruột và ung thư vú. Các hoạt động chống ung thư của nấm thường có liên quan đến sự kích thích hệ thống miễn dịch bởi polysaccharides, chủ yếu là β-glucans. Mặt khác, nấm còn có chứa khoáng chất, vitamin (ví dụ, vitamin B1, B2, C và D), axit amin và các hợp chất hữu cơ khác.

2. Phellinus linteus

Nấm Thượng hoàng (Phellinus linteus)

Nấm dược liệu P. linteus (Berk. Et Curt.) Aoshima (‘meshimakobu’ trong tiếng Nhật) đã được sử dụng trong y học phương Đông truyền thống ở Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. P. linteus có màu cam/vàng, là một loại nấm lâu năm, ký sinh chọn lọc trên cây dâu tằm (Morus) và thuộc lớp nấm đảm, họ Hymenochaetaceae basidiomycetes, trong đó có 220 loài Phellinus mọc chủ yếu ở các vùng nhiệt đới. Hơn 40 năm trước, một nghiên cứu ban đầu ở Nhật Bản đã chứng minh rằng P. linteus có tác dụng chống ung thư mạnh nhất so với các loại nấm khác. Như đã được báo cáo trước đây, P. linteus cũng chứng tỏ tác dụng điều hòa miễn dịch, kháng viêm, chống dị ứng, chống tạo mạch và chống oxy hóa. Các tác dụng sinh học này được phát hiện có liên quan đến polysaccharides, proteoglycan và các hợp chất hữu cơ khác như hispolon, axit caffeic, davallialactone, interfungins A và inoscavin A. Do đó, các hợp chất bị hoặc các chất chiết xuất phức tạp phân lập từ P. linteus thể hiện sự ức chế chuyên biệt các con đường truyền tín hiệu trong một loạt các tế bào ung thư.

Nuôi trồng Nấm Thượng hoàng (Phellinus linteus) tại Trung Quốc

3. Hoạt tính chống ung thư của các hợp chất phân lập từ P. linteus

Polysaccharides phân lập từ P. linteus (PLP) có khả năng kéo dài đáng kể sự tồn tại của chuột mang tế bào u ác tính B16F10. Hơn nữa, PLP còn ức chế sự tăng trưởng khối u và giảm tần suất di căn phổi. Đáng chú ý, PLP không gây độc trực tiếp với tế bào ung thư và cơ chế của nó đã được chứng minh là thông qua sự kích thích đáp ứng miễn dịch. Do đó, PLP đã được đề xuất cho bệnh nhân như một tác nhân điều trị miễn dịch tự nhiên mà không có độc tính. Các tác dụng điều hòa miễn dịch của polysaccharide axit phân lập từ P. linteus (APPL) có tương quan với sự gia tăng sản xuất oxit nitric (NO) và hoạt tính gây ung thư trong đại thực bào màng bụng. Hơn nữa, genistein và staurosporine ngăn chặn sự sản xuất NO và hoạt tính tiêu diệt khối u trong sự đáp ứng với APPL trong đại thực bào, điều đó cho thấy rằng cho thấy rằng APPL kích hoạt protein tyrosine kinase (PTK) và/hoặc protein kinase C (PKC) tín hiệu trong đại thực bào. Trong một nghiên cứu khác, APPL đã ức chế đáng kể sự di căn của các tế bào u ác tính ở chuột thông qua sự ức chế trực tiếp sự bám dính và xâm lấn của tế bào. Tuy nhiên, APPL không ảnh hưởng đến sự phát triển của tế bào, cho thấy rằng các tính chất chống di căn của APPL được trung gian thông qua điều hòa miễn dịch và ức chế trực tiếp sự bám dính tế bào.

Mặc dù uống phức hợp protein-glucan (PGC) phân lập từ sợi nấm P. linteus, có chứa 39,3% polysaccharide và 49,4% protein, có thể ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư mô liên kết S-180 ở chuột, cơ chế hoạt động của PGC chưa được xác định. Phức hợp polysaccharide-protein (PPC) chiết xuất từ P. linteus chứng tỏ hiệu quả điều hòa miễn dịch thông qua sự kích thích sự gia tăng của tế bào B trong tế bào lách của chuột và sự cảm ứng sản sinh interleukin (IL)-1β, IL-6 và yếu tố hoại tử khối u α (TNF-α) trong đại thực bào màng bụng. Hơn nữa, PPC điều hòa tăng hoạt động chống khối u qua trung gian đại thực bào bằng cách tiết NO và tăng cường độc tính tế bào tiêu diệt tự nhiên (natural killer, NK). Mặt khác, polysaccharide liên kết với protein (PBP) phân lập từ P. linteus cũng có tác dụng trực tiếp lên tế bào ung thư. Do đó, PBP ức chế sự tăng sinh và hình thành cụm của các tế bào ung thư đại tràng ở người. Sự ức chế tăng trưởng tế bào bởi PBP được trung gian bởi sự ngăn chặn chu kỳ tế bào ở giai đoạn G2/M và được kết hợp với sự điều hòa giảm biểu hiện của protein điều hòa chu trình tế bào cyclin B1. Hơn nữa, PBP cảm ứng quá trình apoptosis của tế bào ung thư đại tràng, và hiệu ứng này có liên quan với sự giảm Bcl-2 và sự gia tăng giải phóng cytochrome c. Ngoài các hoạt động chống ung thư của polysaccharides và phức hợp của chúng (Bảng 1), các hợp chất có trọng lượng phân tử thấp được phân lập đã cho thấy các tác dụng đặc hiệu đối với nhiều tế bào ung thư. Hispolon phân lập từ P. linteus đã chứng minh sự ức chế phụ thuộc liều lượng lên sự tăng sinh tế bào biểu mô KB ở người. Hơn nữa, quá trình apoptosis được cảm ứng bởi hispolon của các tế bào KB liên quan đến thang DNA đặc trưng và với số lượng tế bào tăng lên bị ngăn chặn trong giai đoạn sub-G1 của chu trình tế bào. Các quá trình apoptosis này được kèm theo bởi sự phá vỡ màng ty thể, giải phóng cytochrome c và hoạt hóa caspase-3, cho thấy rằng hispolon cảm ứng chuyên biệt sự chết tế bào của các tế bào biểu mô thông qua một con đường apoptotosis qua trung gian ty thể.

Bảng 1:Hoạt tính chống ung thư của các hoạt chất P. linteus

Như đã được chứng minh gần đây, hispolon ức chế sự gia tăng và cảm ứng quá trình apoptosis của các tế bào ung thư vú và bàng quang, độc lập với quá trình ức chế khối u p53 trong các tế bào này. Sự ức chế tăng trưởng tế bào được thông qua trung gian bằng cách kìm hãm chu trình tế bào ở giai đoạn G2/M thông qua sự điều hòa tăng biểu hiện của chất ức chế kinase phụ thuộc vào chu kì p21, trong khi apoptosis được liên kết với sự cảm ứng phụ thuộc vào ERK1/2 của caspase-7 và PARP trong các tế bào ung thư vú và bàng quang. Đáng chú ý, hispolon điều hòa giảm biểu hiện của gene tiền ung thư MDM2 thông qua sự ubiquitin hóa MDM2 qua trung gian ERK1/2, chứng minh rằng hiệu quả của việc sử dụng hispolon để điều trị ung thư. Gần đây, phellifuropyranone A và meshimakobnol A và B được phân lập từ P. linteus đã chứng minh hoạt tính chống tăng sinh in vitro chống lại u ác tính chuột và tế bào ung thư phổi ở người, mặc dù cơ chế phân tử chịu trách nhiệm về hoạt động của chúng chưa được xác định.

4. Hoạt tính chống ung thư của chiết xuất P. linteus

Như đã đề cập ở trên, các hợp chất hoạt tính sinh học khác nhau thể hiện các hoạt tính chống ung thư trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua điều hòa miễn dịch đã được phân lập từ P. linteus. Tuy nhiên, nấm trong y học phương Đông truyền thống hoặc trong các hình thức thực phẩm bổ sung thường được sử dụng ở dạng nấm khô hoặc chiết xuất từ nấm. Do đó, một loạt các nghiên cứu đã thực hiện để đánh giá hoạt tính sinh học của các chiết xuất từ P. linteus (Hình 1). Tiềm năng chống chất gây ung thư/hóa dự phòng của chiết xuất từ dịch nuôi cấy và sợi nấm của P. linteus (pl i và pl ii) đã được đề xuất thông qua sự cảm ứng của enzyme phase ii, glutathione S-transferase. Chiết xuất từ sợi nấm của P. linteus (mEpl) ức chế sự tăng sinh và gây ra sự chết của tế bào SK-n-mc u nguyên bào thần kinh, như được chứng minh bằng sự cô đặc chromatin và tăng số lượng tế bào trong giai đoạn sub-G1. Các tác dụng này có liên quan đến sự cảm ứng của chất ức chế kinase phụ thuộc vào cyclin p21, protein Bap proapoptotic. Hơn nữa, mEpl kích thích hoạt tính caspase-3 và gây ra sự phân tách protein phân giải của các protein mục tiêu mục tiêu như PARP và β-catenin.

Trong một nghiên cứu khác, kết hợp điều trị với liều thấp của chiết xuất P. linteus (PL) và thuốc chống ung thư doxorubicin đã cảm ứng quá trình apoptosis của các tế bào ung thư tuyến tiền liệt lncap thông qua việc kích hoạt caspase-3 và -8. Do đó, sự kết hợp của pl với các thuốc hóa trị liệu khác làm giảm một số tác dụng phụ của các thuốc này bằng cách sử dụng liều thấp hơn trong điều trị phối hợp với PL. Hơn nữa, PL cảm ứng đặc hiệu quá trình apoptosis trong thụ thể androgen tế bào lncap ung thư tuyến tiền liệt dương-(ar) thông qua việc kích hoạt caspase-2, trong khi sự cảm ứng quá trình apoptosis trong các tế bào pc-3 ung thư tuyến tiền liệt âm-(ar) là caspase-2 độc lập; điều này cho thấy rằng PL kích hoạt các con đường apoptosis phụ thuộc vào và không phụ thuộc (ar). Ngoài ra, một liều thấp của PL cũng làm kìm hãm chu kỳ tế bào ở giai đoạn G1 thông qua điều hòa giảm biểu hiện của kinases phụ thuộc cyclin cdK-2, -4 và -6, trong khi một liều cao PL cảm ứng apoptosis của các tế bào ung thư phổi. Một chiết xuất ngậm nước của cambodian P. linteus (CPL) ức chế sự kết dính với gelatin và sự xâm nhập của các tế bào u ác tính B16Bl6 xâm lấn, cũng như sự kết tụ tiểu cầu gây ra bởi B16Bl6. Hơn nữa, CPL ức chế các khối di căn phổi ở chuột c57Bl/6 bị tiêm tĩnh mạch với các tế bào B16Bl6. Tác dụng này có liên quan với việc điều hòa giảm biểu hiện của chất hoạt hóa plasminogen loại urokinase (uPA), chứng tỏ rằng CPL có thể ức chế di căn thông qua điều hòa upa kết hợp với sự kết tụ tiểu cầu cảm ứng bởi tế bào khối u.

PL đã được chứng minh có khả năng ức chế sự tăng sinh và sự hình thành cụm của các tế bào ung thư vú mda-mB-231 xâm lấn cao ở người. Tác dụng này được thông qua trung gian bằng cách ức chế chu trình tế bào ở giai đoạn S thông qua sự điều hòa tăng biểu hiện của chất ức chế kinase phụ thuộc cyclin p27. PL cũng ức chế động thái xâm lấn của các tế bào mda-mB-231 bằng cách ức chế sự bám dính tế bào, di chuyển tế bào và xâm nhập tế bào thông qua sự ức chế bài tiết uPA. Hơn nữa, PL cũng ức chế đáng kể quá trình hình thành mao mạch của tế bào nội mô động mạch chủ ở người thông qua việc điều hòa giảm sự bài tiết yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu từ các tế bào mda-mB-231. Do đó, sự ức chế sự hình thành mạch của PL được qua trung gian bằng sự ức chế serine-threonine kinase AKT trong các tế bào ung thư vú. Cuối cùng, chiết xuất từ sợi nấm P. linteus (PL-1 và PL-2) ức chế sự hoạt hóa thụ thể aryl hydrocarbon (AhR), thụ thể được kích hoạt bởi các chất gây ô nhiễm môi trường và các hydrocarbon halogen và đa vòng, dẫn đến biểu hiện gen phụ thuộc vào AhR. PL-1 cũng ức chế biểu hiện gen phụ thuộc vào AhR được gây ra bởi khói thuốc lá, cho thấy việc sử dụng P. linteous để phòng ngừa các bệnh lý liên quan đến hoạt hóa bất thường của AhR, bao gồm cả các bệnh liên quan đến hút thuốc lá.

Tóm lại, một loạt các chất chiết xuất từ P. linteus đã chứng minh hoạt tính ức chế chống lại các con đường truyền tín hiệu dẫn đến sự phát triển và tiến triển của bệnh ung thư. Mặc dù một số chất chiết xuất này chỉ đặc trưng một phần, nhưng những nghiên cứu này rất quan trọng, vì chúng phản ánh việc sử dụng các chất chiết xuất trong y học phương Đông truyền thống.

5. Các nghiên cứu trên người

Mặc dù ba nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh rằng các loại nấm có thể bảo vệ chống lại ung thư, nhưng việc sử dụng P. linteus không được đề cập trong các nghiên cứu này. Ngoài các bằng chứng phi khoa học, một số ít trường hợp đã chứng minh tác dụng điều trị của chất chiết xuất P. linteus ở các bệnh nhân. Một trường hợp báo cáo từ Nhật Bản đã mô tả một phản ứng tích cực đối với việc sử dụng chiết xuất P. linteus trong một bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt kháng hormone với di căn xương tiến triển nhanh. Một trường hợp báo cáo khác từ Hàn Quốc đã mô tả sự suy giảm tự phát của ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) và khối xương trán di căn ở một người đàn ông 65 tuổi sau khi xạ trị và uống P. linteus trong 18 tháng. Cuối cùng, HCC với di căn phổi phức tạp hoàn toàn bị suy giảm sau 6 tháng ở một người đàn ông 79 tuổi khi sử dụng chất chiết xuất từ sợi nấm P. linteus trong 1 tháng mà không sử dụng bất kỳ liệu pháp nào khác.

6. Kết luận

Tiềm năng trị liệu của các hợp chất hoặc chiết xuất từ nấm dược liệu P. linteus đã được chứng minh rõ ràng trong các nghiên cứu khoa học chính xác. Ngoài ra, hiệu quả điều trị của chiết xuất P. linteus được mô tả một cách độc lập trong nhiều báo cáo. Nói chung, các nghiên cứu này giải thích cho việc sử dụng các chất bổ sung vào chế độ ăn uống có chứa chiết xuất P. linteus như là phương pháp thay thế trong điều trị ung thư.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *